HỘI THẨM ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM
QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN
I. BỐI CẢNH RA ĐỜI
Trong giai đoạn đầu của thời kỳ đổi mới cơ chế kinh tế (1986), Đảng ta đã xác định: “cải cách, đổi mới cơ chế quản lý giá đóng vai trò trung tâm trong tiến trình đổi mới cơ chế quản lý kinh tế từ cơ chế kế hoạch hóa tập trung sang mô hình kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Thực hiện đường lối đổi mới, chúng ta đã chuyển cơ chế giá do Nhà nước quy định đối với hầu hết các hàng hóa, dịch vụ trong nền kinh tế, buộc toàn xã hội thực hiện sang cơ chế giá thị trường có sự điều tiết của Nhà nước. Thực tế đã chứng minh đó là con đường lựa chọn đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta.
Tuy nhiên, bên cạnh mặt tích cực, cơ chế giá thị trường tự nó luôn tiềm ẩn những yếu tố tác động làm cho giá thị trường không phải bao giờ và lúc nào cũng vận động đúng với giá trị thực của thị trường, như các yếu tố: độc quyền, đầu cơ, móc ngoặc, gian lận thương mại… Vì thế, khi quyết định phương án đầu tư, mua bán, thực hiện các nghĩa vụ tài chính… cả hai phía: mua và bán đều muốn có giá thị trường thực của tài sản để thực hiện quá trình giao dịch không bị rủi ro, thiệt hại. Xuất phát từ nhu cầu ban đầu đó, cùng với sự phát triển của nền kinh tế, nhu cầu ấy đã xuất hiện ngày càng nhiều và đa dạng trên nhiều lĩnh vực kinh tế ở nước ta như: Xác định giá trị mua sắm tài sản từ nguồn ngân sách Nhà nước, xác định giá trị tài sản để góp vốn, thế chấp, tính thuế, mua sắm, chuyển nhượng; cổ phần hóa, sát nhập, giải thể, phá sản doanh nghiệp… Tháng 2/1998 Trưởng Ban Vật giá Chính phủ đã ký quyết định thành lập Trung tâm tư vấn dịch vụ kiểm định giá, tháng 9/1999 ký Quyết định thành lập Trung tâm thông tin và kiểm định giá Việt Nam. Đây là hai Trung tâm làm nhiệm vụ thẩm định giá đầu tiên của cả nước; cũng từ đó nhiều Sở Tài chính - Vật giá các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương cũng đã thành lập các Trung tâm thẩm định giá. Sự ra đời của nghề thẩm định giá Việt Nam nhanh chóng được các tổ chức quốc tế công nhận; Chính vì vậy ngày 8/6/1997 Thủ tướng Chính phủ đã cho phép Ban Vật giá Chính phủ Việt Nam gia nhập và là thành viên chính thức của Hiệp Hội thẩm định giá ASEAN, ngày 1/6/1998 tham gia Ủy ban Tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế với tư cách là hội viên thông tấn và đến tháng 11/2009 đã trở thành thành viên chính thức của Hội đồng Tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế.
Năm 2002, Pháp lệnh giá được Ủy ban Thường vụ Quốc hội ban hành đã chính thức cho phép thành lập các doanh nghiệp thẩm định giá (TĐG) bao gồm: Doanh nghiệp Nhà nước và doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác để thẩm định giá các tài sản của Nhà nước, tài sản của tổ chức, cá nhân trong xã hội có nhu cầu, làm cơ sở để chủ tài sản có căn cứ phê duyệt chi từ ngân sách Nhà nước, tính thuế, xác định giá trị bảo đảm vay vốn ngân hàng, mua bảo hiểm, cho thuê, chuyển nhượng, bán, góp vốn, cổ phần hóa, giải thể doanh nghiệp và sử dụng vào các mục đích khác đã được ghi trong hợp đồng TĐG.
Tính đến thời điểm này, cả nước có 2 Trung tâm thẩm định giá trực thuộc Ban Vật giá Chính phủ và 34 Trung tâm thẩm định giá trực thuộc Sở Tài chính các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương bắt đầu chuyển sang hoạt động theo mô hình doanh nghiệp theo quy định của Pháp lệnh Giá và Nghị định số 101/2005/NĐ-CP ngày 3/8/2005 của Chính phủ về thẩm định giá…
Căn cứ vào tình hình thực tế và quy mô hoạt động của nghề TĐG, nhu cầu thành lập Hội Thẩm định giá Việt Nam đã hình thành. Nắm bắt kịp thời nhu cầu đó, Ts Nguyễn Ngọc Tuấn - Nguyên Trưởng Ban Vật giá Chính phủ, nguyên Thứ trưởng Bộ Tài chính đã đề xuất ý tưởng thành lập Hội và ý tưởng đó đặc biệt được đồng chí Nguyễn Sinh Hùng khi đó là Ủy viên Trung ương Đảng - Bộ Trưởng Bộ Tài chính rất khuyến khích, quan tâm và tạo điều kiện cần thiết. Để biến ý tưởng thành hiện thực, Ts Nguyễn Ngọc Tuấn đã chủ động cùng lãnh đạo một số doanh nghiệp TĐG nòng cốt tích cực triển khai các công việc cần thiết trình các cơ quan có thẩm quyền để Hội Thẩm định giá Việt Nam ra đời. Chính vì vậy, ngày 26/12/2005 Bộ trưởng Bộ Nội vụ đã có Quyết định số 138/2005/QĐ-BNV về việc cho phép thành lập Hội Thẩm định giá Việt Nam hoạt động theo Điều lệ của Hội được Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt và chịu sự quản lý Nhà nước của Bộ Tài chính.
Sau khi các thủ tục pháp lý về việc thành lập Hội được ban hành, dưới sự chỉ đạo, chứng kiến của Lãnh đạo Bộ Tài chính, Đại hội thành lập Hội Thẩm định giá Việt Nam đã được tổ chức thành công vào ngày 24/5/2006 và đã bầu ra Ban Chấp hành gồm 15 thành viên do Ông Nguyễn Ngọc Tuấn làm Chủ tịch.
Hội tổ chức hoạt động theo Điều lệ được Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt tại Quyết định số 1116/QĐ-BNV ngày 14/8/2006. Từ Đại hội nhiệm kỳ II, nhiệm kỳ III đến nay, Hội tiếp tục tổ chức hoạt động theo Điều lệ Hội do Bộ trưởng Bộ Nội vụ phê duyệt tại Quyết định số 1121/QĐ-BNV ngày 11/10/2013.
*Tôn chỉ, mục đích của Hội như sau:
- Hội Thẩm định giá Việt Nam (sau đây gọi tắt là Hội) là tổ chức xã hội – nghề nghiệp, được thành lập trên cơ sở tự nguyện của các tổ chức và công dân Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ tư vấn định giá và thẩm định giá theo quy định của pháp luật (sau đây gọi tắt là thẩm định giá).
- Mục đích hoạt động của Hội là tập hợp, đoàn kết hội viên; đại diện cho quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp của hội viên; phối hợp, liên kết hỗ trợ hoạt động của các hội viên; vận động khuyến khích hội viên nghiêm túc chấp hành pháp luật về định giá và thẩm định giá, giữ gìn đạo đức nghề nghiệp, nâng cao chất lượng dịch vụ, mở rộng quan hệ hợp tác với các tổ chức có cùng lĩnh vực hoạt động ở các nước trong khu vực và trên Thế giới, góp phần vào sự phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.
* Nhiệm vụ và quyền hạn của Hội được quy định trong Điều lệ Hội:
A. Quyền hạn
1. Tuyên truyền tôn chỉ, mục đích hoạt động của Hội.
2. Đại diện cho hội viên trong mối quan hệ đối nội, đối ngoại có liên quan đến chức năng, nhiệm vụ của Hội.
3. Bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của hội viên phù hợp với tôn chỉ, mục đích hoạt động của Hội theo quy định của pháp luật.
4. Tham gia chương trình, dự án, đề tài nghiên cứu, tư vấn, phản biện và giám định xã hội theo đề nghị của cơ quan nhà nước có thẩm quyền; cung cấp dịch vụ công về các vấn đề thuộc lĩnh vực hoạt động của Hội, tổ chức dạy nghề, truyền nghề theo quy định của pháp luật.
5. Tham gia ý kiến vào các văn bản quy phạm pháp luật có liên quan đến nội dung hoạt động của Hội theo quy định của pháp luật. Kiến nghị với cơ quan nhà nước có thẩm quyền đối với các vấn đề liên quan tới sự phát triển Hội và lĩnh vực Hội hoạt động. Được tổ chức đào tạo, bồi dưỡng, tổ chức các hoạt động dịch vụ khác theo quy định của pháp luật và được cấp chứng chỉ hành nghề khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật.
6. Phối hợp với cơ quan, tổ chức có liên quan để thực hiện nhiệm vụ của Hội.
7. Thành lập pháp nhân thuộc Hội theo quy định của pháp luật.
8. Được gây quỹ Hội trên cơ sở hội phí của hội viên và các nguồn thu từ hoạt động kinh doanh, dịch vụ theo quy định của pháp luật để tự trang trải về kinh phí hoạt động.
9. Được nhận các nguồn tài trợ hợp pháp của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước theo quy định của pháp luật.
10. Được gia nhập các tổ chức quốc tế tương ứng và ký kết, thực hiện thỏa thuận quốc tế theo quy định của pháp luật và báo cáo cơ quan quản lý nhà nước về ngành, lĩnh vực Hội hoạt động, cơ quan quyết định cho phép thành lập Hội về việc gia nhập tổ chức quốc tế tương ứng, ký kết, thực hiện thoả thuận quốc tế.
B. Nhiệm vụ
1. Chấp hành các quy định của pháp luật có liên quan đến tổ chức, hoạt động của Hội. Tổ chức, hoạt động theo quy định của pháp luật và Điều lệ Hội đã được phê duyệt. Không được lợi dụng hoạt động của Hội để làm phương hại đến an ninh quốc gia, trật tự xã hội, đạo đức, thuần phong mỹ tục, truyền thống của dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
2. Tập hợp, đoàn kết hội viên; tổ chức, phối hợp hoạt động giữa các hội viên vì lợi ích chung của Hội; thực hiện đúng tôn chỉ, mục đích hoạt động của Hội nhằm tham gia phát triển lĩnh vực liên quan đến hoạt động của Hội, góp phần xây dựng và phát triển đất nước.
3. Phổ biến, huấn luyện kiến thức cho hội viên, hướng dẫn hội viên tuân thủ pháp luật, chế độ, chính sách của Nhà nước và Điều lệ, quy chế, quy định của Hội.
4. Đại diện hội viên tham gia, kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền về các chủ trương, chính sách liên quan đến lĩnh vực hoạt động của Hội theo quy định của pháp luật.
5. Hòa giải tranh chấp, giải quyết khiếu nại, tố cáo trong nội bộ Hội theo quy định của pháp luật.
6. Xây dựng và ban hành quy tắc đạo đức trong hoạt động của Hội.
7. Quản lý và sử dụng các nguồn kinh phí của Hội theo đúng quy định của pháp luật.
8. Thực hiện các nhiệm vụ khác khi cơ quan có thẩm quyền yêu cầu.
* Cơ cấu tổ chức của Hội

* Địa chỉ trụ sở Hội:
- Phòng 101/602 Tòa nhà dự án –Số 4 ngõ Hàng Chuối I - Hai Bà trưng - Hà Nội.
- Số điện thoại của Văn phòng Hội:
+ Chủ tịch Hội: (024) 36410004
+ Văn phòng Hội: (024) 36410056/36410329
+ Fax: (024) 36410056
+ Email: hoithamdinhgiavn@vva.org.vn
+ Website: www.vva.org.vn
* Các chức danh Lãnh đạo Hội nhiệm kỳ III (2018-2022)
STT |
CÁC CHỨC DANH |
HỌ VÀ TÊN |
1 |
Chủ tịch Hội |
Ông Nguyễn Tiến Thỏa |
| | |
2 |
Các Phó Chủ tịch |
1.Ông Tô Công Thành |
|
|
2.Ông Nguyễn Văn Truyền |
| |
3. Ông Nguyễn Quang Hùng |
|
|
4. Ông Vũ An Khang |
|
|
5. Ông Nguyễn Văn Thọ |
|
|
6. Bà Dương Thị Mỹ Lạng |
3 |
Ban Thường vụ Hội |
1. Ông Nguyễn Tiến Thỏa |
|
|
2. Ông Tô Công Thành |
|
|
3. Ông Nguyễn Văn Truyền |
|
|
4. Ông Nguyễn Quang Hùng |
|
|
5. Ông Vũ An Khang |
|
|
6. Ông Nguyễn Văn Thọ |
|
|
7. Bà Dương Thị Mỹ Lạng |
4 |
Các Ủy viên BCH |
1. Ông Đinh Quang Vũ |
|
|
2. Ông Nguyễn Minh Hải |
|
|
3. Ông Huỳnh Văn Ngoãn |
|
|
4. Ông Nguyễn Văn Trung |
| |
5.Ông Nguyễn Thế Phượng |
|
|
6. Ông Nguyễn Huy Cường |
|
|
7. Ông Vũ Xuân Biển |
|
|
8. Bà Tô Thị Tươi |
|
|
9. Ông Nguyễn Xuân Trường |
|
|
10. Bà Nguyễn Thị Hiền |
5 |
Trưởng ban thanh tra, kiểm tra |
Ông Nguyễn Quang Hùng |
II. QUÁ TRÌNH XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH
Những ngày đầu “lập nghiệp”, Hội phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức: không có trụ sở, không có nhân viên làm việc, phương tiện phục vụ công việc cũng không; số lượng hội viên ít (chỉ có 20 đơn vị là hội viên tập thể và khoảng 100 hội viên cá nhân); không có và không được Nhà nước cấp kinh phí hoạt động… Nhưng rồi, với sự hỗ trợ ban đầu cần thiết về vật chất của các hội viên là các công ty TĐG như: Công ty CP Tư vấn - Dịch vụ về tài sản, bất động sản DATC, Công ty CP Thông tin và Thẩm định giá Tây Nam Bộ, Công ty CP Thông tin và định giá Việt Nam, Công ty CP Thẩm định giá và Dịch vụ Tài chính Hà Nội… Cộng với sự phấn đấu không ngừng của Hội trong nhiều năm qua (đặc biệt là Thường trực Hội và Văn phòng Hội). Đến nay, Hội đã có một trụ sở làm việc chính tại Hà Nội (được Bộ Tài chính cho thuê), Văn phòng đại diện tại TP Hồ Chí Minh; cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ làm việc đã được tăng cường; số hội viên là các doanh nghiệp TĐG tham gia Hội tăng 2,5 lần, số hội viên là cá nhân tăng 3,00 lần so với thời kỳ mới thành lập…
Vừa tập trung khắc phục những khó khăn, vừa tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ chuyên môn; Hơn mười năm qua, với 3 nhiệm kỳ hoạt động, Hội đã tổ chức hoạt động trên nhiều lĩnh vực theo quy định của Điều lệ Hội, của Pháp lệnh Giá, sau đó là Luật Giá, các pháp luật có liên quan và đã đạt được nhiều kết quả, những bước trưởng thành nhanh chóng trên nhiều lĩnh vực theo chức năng, nhiệm vụ được giao, cụ thể:
1. Tham gia với cơ quan quản lý Nhà nước về xây dựng cơ chế chính sách về thẩm định giá:
Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ tham mưu, tư vấn, phản biện, góp ý xây dựng và hoàn thiện khung khổ pháp lý, cơ chế chính sách về giá và thẩm định giá theo yêu cầu của các cơ quan quản lý Nhà nước có liên quan và của Bộ Tài chính.
Hội đã có hàng trăm văn bản gửi một số Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, các Bộ, Ngành và chủ động trực tiếp làm việc với nhiều cơ quan có liên quan về giá và thẩm định giá. Các đề xuất, góp ý của Hội đều tập trung vào việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá, thẩm định giá, thông qua các kiến nghị tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong hoạt động thẩm định giá; xử lý những mâu thuẫn, xung đột, thậm chí chia cắt trong hệ thống pháp luật có liên quan về giá và thẩm định giá với pháp luật về giá nhằm góp phần xây dựng được hệ thống pháp luật bảo đảm tính thống nhất giữa Luật Giá và các Luật có liên quan. Ví dụ như: Kiến nghị một số Ủy ban của Quốc hội, Thủ tướng Chính phủ xử lý mâu thuẫn giữa Luật Giá với Dự thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật chuyển giao công nghệ về những nội dung: định giá, thẩm định giá, tổ chức thẩm định giá tài sản vô hình và những điều kiện phải có để cập nhật kiến thức đối với tổ chức thẩm định giá tài sản vô hình; hoặc kiến nghị Thủ tướng Chính phủ, Bộ Tài chính, Bộ Tài nguyên và Môi trường xử lý những mâu thuẫn về định giá đất và thẩm định giá đất giữa các văn bản hướng dẫn Luật Đất đai với các Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam. Kiến nghị với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam sửa những nội dung về giá và thẩm định giá mà một số Luật quy định không đồng nhất với Luật Giá để bảo đảm thống nhất với Luật Doanh nghiệp, Luật Đầu tư theo chủ trương của Chính phủ, Quốc hội… Trên cơ sở đó, Hội đã tích cực tham mưu, đóng góp ý kiến với Bộ Tài chính xây dựng Luật Giá, các Nghị định của Chính phủ hướng dẫn Luật Giá, các Thông tư của Bộ Tài chính hướng dẫn thi hành, các Nghị định của Chính phủ về giá và thẩm định giá, các Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam; tham gia xây dựng và hoàn thiện Đề án nâng cao năng lực hoạt động thẩm định giá giai đoạn 2012-2020. Hội đã có sáng kiến xây dựng hai Đề án: “các Tiêu chí xếp hạng các doanh nghiệp thẩm định giá” và “Các giải pháp kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động thẩm định giá” để chuyển thành các kiến nghị Bộ Tài chính các giải pháp kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động thẩm định giá. Góp ý với Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam về sửa đổi Luật Doanh nghiệp, Luật ban hành văn bản pháp luật, Thông tư quy định khung thù lao dịch vụ đấu giá theo quy định của Luật Đấu giá tài sản do Bộ Tài chính soạn thảo… Góp ý với Bộ Tài nguyên và Môi trường về các Dự thảo Nghị định, Thông tư quy định phương pháp định giá đất, khung giá đất. Góp ý với Bộ Khoa học và Công nghệ Dự thảo Thông tư Liên tịch: Hướng dẫn định giá tài sản trí tuệ sử dụng ngân sách Nhà nước…
Nhìn chung các đề xuất, góp ý của Hội đều được các cơ quan quản lý Nhà nước có yêu cầu đóng góp ý kiến đánh giá cao do bảo đảm đúng thời gian, chất lượng tốt, có tính khả thi; các nội dung đề xuất góp ý đều được các cơ quan có nhu cầu góp ý nghiên cứu, tiếp thu đưa vào xây dựng và hoàn thiện các văn bản pháp luật, đặc biệt là những góp ý để xây dựng một hệ thống pháp luật về giá và thẩm định giá bảo đảm sự gắn kết, tính thống nhất với hệ thống các Luật có liên quan góp phần tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động thẩm định giá hiệu quả đáp ứng tốt yêu cầu của quản lý Nhà nước về giá, nhu cầu của xã hội, góp phần tích cực vào việc khẳng định uy tín của Hội, giảm thiểu được sự mâu thuẫn, chồng chéo trong hoạt động thực tiễn, tránh được sự lãng phí về tiền bạc của xã hội…
Ngoài việc hoàn thành tốt các công việc nêu trên, Hội còn tích cực phản ánh với cơ quan quản lý Nhà nước tâm tư, nguyện vọng, những khó khăn vướng mắc của thực tiễn hoạt động thẩm định giá mà các doanh nghiệp, thẩm định viên gặp phải để được tháo gỡ. Đồng thời Hội cũng đã chú trọng phối hợp với các doanh nghiệp thẩm định giá nghiên cứu, giải đáp các vướng mắc của các thẩm định viên, các doanh nghiệp thẩm định giá trong quá trình áp dụng các Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam để thẩm định giá tài sản..
Tất cả những việc làm trên của Hội suy đến cùng là để giúp các doanh nghiệp, các thẩm định viên hoạt động trong môi trường pháp lý chặt chẽ, hoàn chỉnh, giảm thiểu và ngăn ngừa rủi ro trong quá trình tác nghiệp và cũng chính là để hỗ trợ, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của hội viên hoạt động thẩm định giá đạt hiệu quả cao nhất.
2. Hoạt động đào tạọ, bồi dưỡng
Công tác đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá cho các đối tượng trong xã hội có nhu cầu tự nguyện tham gia học và cập nhật kiến thức về thẩm định giá cho các thẩm định viên về giá đạt kết quả cao thông qua việc: tổ chức được 129 lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành thẩm định giá cho khoảng 7000 học viên, 9 lớp ôn thi để thi lấy Thẻ thẩm định viên về giá do Bộ Tài chính tổ chức cho khoảng gần 1000 người; Đồng thời, Hội cũng đã phối hợp với Trường Đại học Kinh tế TP Hồ Chí Minh hoàn thành khóa đào tạo cao học về thẩm định giá cho 42 học viên. Đáng chú ý là từ năm 2015 đến nay, khi Bộ Tài chính có chủ trương phải cập nhật kiến thức hàng năm cho các thẩm định viên về giá để Bộ Tài chính xem xét chấp thuận và thông báo các thẩm định viên về giá đủ điều kiện hành nghề thẩm định giá, Hội đã tổ chức được 32 khóa học cập nhật kiến thức cho 2.571 thẩm định viên về giá.
Trong lĩnh vực đào tạo, đặc biệt là bồi dưỡng cập nhật kiến thức hàng năm cho các thẩm định viên về giá là hội viên của Hội và chưa phải là hội viên của Hội ở khu vực miền Trung do học viên ít, điều kiện đi lại tốn kém, xét về kinh tế để trang trải chi phí cho các lớp học khó khăn, nhưng Hội vẫn cố gắng tổ chức giúp các học viên có điều kiện theo học thuận lợi. Không những vậy, ở tất cả các lớp Hội tổ chức ở các khu vực khác, các học viên đến học tập đều được thụ hưởng chính sách giảm học phí theo các Tiêu chí nhất định và các điều kiện học tập tốt…Sau nhiều năm tổ chức đào tạo bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành thẩm định giá đến nay, Hội Thẩm định giá Việt Nam về cơ bản là đều chấp hành đúng các quy định của Bộ Tài chính về: nội dung, thời gian đào tạo, chế độ báo cáo… đã trở thành một địa chỉ đáng tin cậy của các học viên, các lớp đào tạo, bồi dưỡng của Hội đã trở thành “thương hiệu” thu hút các học viên theo học.
Với kết quả đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành về thẩm định giá như trên, Hội đã được Bộ Tài chính đánh giá đây là một trong những thành tích nổi bật của Hội; Dư luận xã hội đánh giá cao về chất lượng đào tạo và số lượng người được đào tạo do Hội đã cung cấp được gần 1000 thẩm định viên đủ điều kiện để Bộ Tài chính thông báo được hành nghề thẩm định giá hàng năm, trên 2000 người đang trực tiếp làm công tác thẩm định giá ở nhiều lĩnh vực trong nền kinh tế như: các tổ chức tài chính, ngân hàng, kiểm toán, các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh.
3. Công tác nghiên cứu khoa học về giá, thẩm định giá và các vấn đề kinh tế vĩ mô để tham mưu, đề xuất ý kiến với cơ quan quản lý Nhà nước đạt thành tích vượt trội; cụ thể:
Hội đã tổ chức nghiên cứu, tổ chức thành công nhiều cuộc hội thảo khoa học và tham gia nhiều cuộc hội thảo khoa học do các Bộ, Ngành tổ chức, đóng góp các đề xuất kiến nghị với các cơ quan quản lý Nhà nước gấp nhiều lần 5 năm trước, như: Ban Kinh tế Trung ương, Văn phòng Trung ương, Bộ Tài chính, Văn phòng Chính phủ, Kiểm toán Nhà nước, Bộ Xây dựng, Bộ Khoa học công nghệ, Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam… tập trung vào các vấn đề: điều hành kinh tế vĩ mô, tài chính, tiền tệ, thị trường, giá cả, chiến lược tài chính quốc gia, cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước; Chính sách giá đất đai, điện, xăng dầu; các Tiêu chuẩn thẩm định giá Việt Nam; Kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động thẩm định giá, nâng cao chất lượng dịch vụ thẩm định giá; Xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật về giá (Luật Giá và các luật có liên quan đến giá và thẩm định giá…). Đáng chú ý, Hội đã hoàn thành một Đề án lớn theo yêu cầu của Trưởng ban kinh tế Trung ương, một Đề án có tầm ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế, góp phần tích cực vào việc thực hiện chủ trương của Đảng về việc tiến hành tổng kết cơ chế kinh tế thị trường ở Việt Nam sau 30 năm đổi mới và những định hướng tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường trình ra Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XII, đó là Đề án: “Đánh giá 30 năm đổi mới cơ chế chính sách giá (trọng tâm là: Hệ thống giá hàng hóa dịch vụ; giá vốn (tỷ giá); giá cả sức lao động (tiền lương); giá đất đai; giá dịch vụ công) và kiến nghị những định hướng lớn về quản lý, điều tiết giá cho chặng đường tiếp theo, góp phần hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường ở Việt Nam. Đề án đã được Ban Kinh tế TW đánh giá khá tốt, gửi đến báo cáo một số đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước xem xét, một số cơ quan liên quan nghiên cứu, tiếp thu, chọn lọc nhiều nội dung đưa vào Đề án chung nêu trên
4. Trong lĩnh vực hoạt động thẩm định giá tài sản của các hội viên là các doanh nghiệp thẩm định giá đã có những bước phát triển và tăng trưởng khá. Hơn 10 năm qua, các doanh nghiệp thẩm định giá đã thẩm định hàng trăm ngàn tỷ đồng giá trị tài sản, tập trung vào tài sản mua sắm từ nguồn ngân sách Nhà nước, bất động sản, máy móc thiết bị, xác định giá trị doanh nghiệp phục vụ chủ trương cổ phần hóa doanh nghiệp Nhà nước… mức doanh thu, lợi nhuận tăng từ 5%-10% hàng năm, giảm chi cho khách hàng, tiết kiệm trong mua sắm tài sản 10-15% so với giá trị tài sản không qua thẩm định. Hầu hết các doanh nghiệp đều tuân thủ pháp luật về thẩm định giá, thực hiện đúng các nghĩa vụ với ngân sách Nhà nước; thực hiện tốt chính sách, chế độ với người lao động. Nhiều doanh nghiệp đã có những đóng góp tích cực trong một số hoạt động vì cộng đồng như các hoạt động xã hội, hoạt động đền ơn đáp nghĩa, khắc phục hậu quả thiên tai, vì người nghèo…
5. Lĩnh vực thông tin, tuyên truyền đã được triển khai có hiệu quả.
Hội đã góp phần tích cực với cơ quan quản lý Nhà nước tuyên truyền cơ chế, chính sách quản lý điều hành giá của Nhà nước trên các phương tiện thông tin đại chúng, góp phần tạo ra sự đồng thuận trong xã hội đối với công tác điều hành giá cả. Đồng thời tổ chức cải cách, nâng cấp Website của Hội theo hướng truyền tải đa dạng, hài hòa các loại hình thông tin nhằm không chỉ truyền tải các thông tin cần thiết đến các hội viên về kinh tế, quản lý, điều hành giá cả, thẩm định giá mà còn trực tiếp giới thiệu, quảng bá hình ảnh hoạt động của các doanh nghiệp thẩm định giá và giúp cho khách hàng thẩm định giá biết được thực trạng hoạt động, năng lực của các doanh nghiệp thẩm định giá để có niềm tin khi lựa chọn doanh nghiệp thẩm định giá đáp ứng nhu cầu thẩm định giá tài sản của mình. Vì thế lượng truy cập hàng năm đều tăng, tính từ năm 2012 khi bắt đầu xây dựng Website đến nay đã có hơn 6,6 triệu lượt người truy cập.
6. Lĩnh vực hợp tác quốc tế về thẩm định giá ngày càng được mở rộng:
Hội đã tích cực tham gia các Hiệp Hội, Hội Thẩm định giá quốc tế mà Hội là thành viên hoặc có quan hệ liên kết, hợp tác như: Ủy ban Tiêu chuẩn thẩm định giá quốc tế, Hiệp Hội thẩm định giá ASEAN,VAVO… Tổ chức nhiều đoàn đi dự các cuộc họp, các cuộc hội thảo ở các nước về thẩm định giá; tổ chức nhiều đoàn cán bộ của Hội đi nghiên cứu, khảo sát, học tập kinh nghiệm của nước ngoài về hoạt động của Hiệp hội về các lĩnh vực chuyên môn liên quan đến thẩm định giá. Tranh thủ sự hợp tác, giúp đỡ của các Hiệp hội thẩm định giá quốc tế và các tổ chức quốc tế khác để tổ chức các khóa đào tạo, bồi dưỡng, hoặc hội thảo chuyên đề về thẩm định giá…
Như vậy, khái quát lại có thể khẳng định rằng: Là một tổ chức với “tuổi đời còn trẻ”, hoạt động tự chủ về mọi mặt, gặp quá nhiều khó khăn trong quá trình xây dựng và trưởng thành. Nhưng với tinh thần lạc quan và tin tưởng, đoàn kết, nhất trí và sáng tạo, Hội đã đạt được nhiều thành tích vượt bậc, đáp ứng được sự đòi hỏi của xã hội, cơ bản đã trở thành “nòng cốt” của mái nhà chung ngành thẩm định giá Việt Nam, là “chiếc cầu nối “gắn kết” giữa Hội, các hội viên với các cơ quan quản lý Nhà nước về giá. Đúng như đánh giá của Gs.Ts Vương Đình Huệ - Ủy viên TW Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài chính khi gửi thư chúc mừng Hội nhân dịp Hội tổ chức Đại hội lần thứ II ngày 18/6/2012: “Tôi vui mừng nhận thấy trong nhiệm kỳ vừa qua, Hội Thẩm định giá Việt Nam đã đoàn kết, vượt qua khó khăn, cố gắng phấn đấu xây dựng Hội và hoàn thành tốt nhiệm vụ chuyên môn, tích cực tham gia với cơ quan quản lý Nhà nước trong việc nghiên cứu, xây dựng cơ chế chính sách để tạo hành lang pháp lý cho hoạt động thẩm định giá phát triển”. Cũng chính vì những thành tích đó mà Hội đã được Nhà nước trao tặng nhiều phần thưởng cao quý gồm: Huân Chương lao động hạng III cho Hội Thẩm định giá Việt Nam và 08 Huân chương Lao động các hạng cho: 02 đơn vị, 04 cá nhân là hội viên của Hội. Bằng khen của Thủ tướng Chính phủ tặng Hội Thẩm định giá Việt Nam và khen tặng 04 đơn vị, 08 cá nhân là hội viên của Hội. Cờ thi đua của Bộ Tài chính tặng Hội Thẩm định giá Việt Nam và 02 đơn vị thành viên của Hội. Bằng khen của Bộ trưởng Bộ Tài chính tặng cho 06 đơn vị và 30 cá nhân là hội viên của Hội.
III. PHƯƠNG HƯỚNG – NHIỆM VỤ HOẠT ĐỘNG
NHIỆM KỲ III (2018-2022)
Nhiệm kỳ III, Hội Thẩm định giá Việt Nam tiếp tục tổ chức hoạt động theo quy định của Điều lệ Hội và các quy định của Luật Giá trong bối cảnh có những thuận lợi là: nhu cầu về TĐG tài sản sẽ có những bước khởi sắc hơn, từ đó sẽ có những tác động tích cực đến thị trường TĐG do tác động từ việc nền kinh tế sẽ phải khai thác, phát huy và sử dụng mọi nguồn lực, đổi mới mô hình tăng trưởng, phấn đấu đạt các mục tiêu kinh tế - xã hội mà kế hoạch phát triển kinh tế 5 năm tới Đảng, Quốc hội đã đề ra. Môi trường pháp lý về thẩm định giá sẽ được tiếp tục sửa đổi, bổ sung hoàn chỉnh tạo thuận lợi cho hoạt động TĐG. Quản lý Nhà nước về TĐG sẽ có hiệu quả hơn trước trên cơ sở tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, đánh giá chất lượng TĐG, giúp cho hoạt động cung ứng dịch vụ TĐG tốt hơn, hạn chế rủi ro… Tuy nhiên, hoạt động TĐG trong nhiệm kỳ tới cũng gặp những khó khăn nhất định chưa thể xử lý ngay một lúc, đòi hỏi phải có thời gian và cách xử lý đồng bộ, đặc biệt là thực trạng “phát triển nóng” – tức là tốc độ tăng trưởng nhanh về thẩm định viên, về doanh nghiệp TĐG, trong đó có khá nhiều doanh nghiệp rất nhỏ - đã gây ra nhiều khó khăn cho công tác quản lý, thực hiện các chương trình nâng cao năng lực TĐG, kiểm soát tình trạng cạnh tranh không lành mạnh trong việc cung ứng dịch vụ TĐG… tiềm ẩn nguy cơ đẩy thị trường thẩm định giá hoạt động thiếu minh bạch, kém chuyên nghiệp, giảm lòng tin của khách hàng. Mặt khác, một số quy định của các Bộ, Ngành ở một số lĩnh vực TĐG tài sản cụ thể đang tồn tại sự không đồng nhất giữa các cơ quan có thẩm quyền đã gây ra những khó khăn nhất định đối với việc thực hiện nghiệp vụ TĐG và trách nhiệm giải trình với cơ quan có thẩm quyền và khách hàng thẩm định giá.
Trong bối cảnh trên, BCH Hội TĐGVN xác định phương hướng, nhiệm vụ hoạt động nhiệm kỳ III như sau:
A. Phương hướng chung
Tập hợp, liên kết các hội viên thực hiện “đoàn kết, hợp tác, đảm bảo chất lượng và tiện ích dịch vụ; nâng cao uy tín, đạo đức nghề nghiệp và sự tin cậy của khách hàng để xây dựng Hội tiếp tục phát triển trên cơ sở không ngừng phát huy nội lực, nâng cao trình độ, nghiệp vụ; năng lực TĐG; chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của pháp luật về TĐG; cạnh tranh lành mạnh, minh bạch, nâng cao chất lượng dịch vụ, hiệu quả và tăng trưởng bền vững đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng.
B. Phương hướng nhiệm vụ cụ thể
* Thứ nhất: Tiếp tục chủ động tham gia, phối hợp với cơ quan quản lý Nhà nước về TĐG, xây dựng, hoàn thiện hành lang pháp lý về TĐG trên cơ sở liên kết chặt chẽ giữa BCH với các hội viên để động viên, đôn đốc các hội viên thực hiện tốt việc tham gia, góp ý, xây dựng và hoàn thiện cơ chế, chính sách, hành lang pháp lý liên quan đến hoạt động TĐG theo yêu cầu của cơ quan quản lý Nhà nước.
Chủ động rà soát, phản ánh những khó khăn vướng mắc trong quá trình thực thi pháp luật về TĐG với cơ quan quản lý Nhà nước để được tháo gỡ; trọng tâm là Nghị định số 89/2013/NĐ-CP của Chính phủ quy định chi tiết một số điều của Luật Giá về TĐG; Các quy định về đào tạo, bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên ngành TĐG; những vướng mắc phát sinh của các Tiêu chuẩn TĐGVN và các quy định của các Bộ, Ngành liên quan đến TĐG; Các nội dung liên quan đến kiểm soát cạnh tranh không lành mạnh trong hoạt động cung ứng dịch vụ TĐG về chất lượng dịch vụ TĐG, giá dịch vụ TĐG, các điều kiện thành lập doanh nghiệp và kinh doanh của doanh nghiệp TĐG…
* Thứ hai: Tích cực triển khai công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành TĐG, nghiên cứu khoa học và tổ chức hội thảo khoa học nghiệp vụ TĐG với nhiệm vụ cụ thể là: Tổ chức ít nhất hàng năm khoảng 5-6 khóa đào tạo, bồi dưỡng kiến thức chuyên ngành TĐG cho các đối tượng có nhu cầu tự nguyện theo học, 3 lớp cập nhật kiến thức về TĐG, 1 lớp ôn thi kiến thức thi Thẻ Thẩm định viên về giá, 1 cuộc hội thảo khoa học liên quan đến nghiệp vụ TĐG hoặc những vấn đề pháp lý liên quan đến hoạt động TĐG. Xây dựng một số nội dung nghiên cứu trực tiếp giải quyết những vấn đề của thực tiễn đặt ra để tập hợp trí tuệ của toàn Hội kiến nghị cơ quan quản lý Nhà nước giải quyết…
* Thứ ba: Tập trung hơn cho công tác thông tin, tuyên truyền về lĩnh vực TĐG bằng các hình thức thích hợp trọng tâm là các quy định của pháp luật về TĐG. Tiếp tục thực hiện cải cách, nâng cấp Website của Hội và các hội viên; mở rộng các hình thức, phạm vi kết nối qua mạng điện tử giữa Hội và các hội viên để cập nhật, truyền tải nhanh nhất các thông tin cần thiết cho các hội viên nhất là các quy định mới của pháp luật về TĐG, các kiến thức mới về TĐG; đồng thời tạo kênh quảng bá hoạt động của Hội và các hội viên, giới thiệu danh sách các doanh nghiệp là hội viên thuộc Hội đủ điều kiện hành nghề TĐG…
* Thứ tư: Hoạt động cung ứng dịch vụ TĐG của các doanh nghiệp TĐG là hội viên trong Hội phấn đấu đạt mức tăng trưởng năm sau cao hơn năm trước về doanh thu, lợi nhuận và nghĩa vụ nộp thuế theo quy định của pháp luật.
Phấn đấu chất lượng TĐG qua kết quả kiểm tra, giám sát; đánh giá của Bộ Tài chính đạt từ 80 điểm trở lên. Không có hội viên nào để xảy ra tình trạng vi phạm pháp luật về TĐG; Không để xảy ra những sai sót, tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về kết quả TĐG.
Đoàn kết với các hội viên và các doanh nghiệp khác, cam kết không để xảy ra tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về giá dịch vụ và chất lượng dịch vụ TĐG.
* Thứ năm: Tiếp tục duy trì quan hệ hợp tác với các tổ chức TĐG quốc tế về các hoạt động hội thảo khoa học, hội nghị thường niên…; phấn đấu mở rộng hợp tác sang các lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng, thông tin, học tập kinh nghiệm.
Chú trọng triển khai các kế hoạch hợp tác với Hiệp hội Thẩm định giá Bất động sản Nhật Bản về việc “chuyển giao” các kinh nghiệm định giá đất hàng loạt của Nhật Bản và những tư vấn về định giá đất ở Việt Nam thông qua các hình thức: Hội thảo, tổ chức khảo sát thực tế, trao đổi thông tin hai chiều…
*Thứ sáu: Kiên trì xây dựng Hội phát triển trở thành “mái nhà chung” của nghề TĐG và là “cầu nối” hữu ích giữa các doanh nghiệp TĐG, thẩm định viên về giá với cơ quan quản lý Nhà nước và ngược lại.
Thực hiện củng cố tổ chức BCH ngay sau Đại hội; Đồng thời triển khai ngay các hoạt động theo nghị quyết của Đại hội thông qua việc xây dựng, sửa đổi, bổ sung, hoàn chỉnh các quy chế hoạt động. Mở rộng các hình thức liên kết với các hội viên; động viên, khuyến khích các hội viên thi đua hoàn thành tốt kế hoạch kinh doanh; chấp hành nghiêm túc pháp luật về TĐG; thực hiện đúng các nghĩa vụ và quyền lợi tham gia các hoạt động của Hội, tích cực thực hiện các quyền và nghĩa vụ của hội viên trong việc phối hợp xây dựng hành lang pháp lý về TĐG, trong đào tạo bồi dưỡng, cập nhật kiến thức về TĐG, thông tin tuyên truyền, nghiên cứu khoa học, nghĩa vụ hội phí xây dựng Hội… Kết nối chặt chẽ với cơ quan quản lý Nhà nước để thực hiện đúng các quy định của Điều lệ Hội và của Luật Giá.
Phấn đấu mỗi năm kết nạp tối thiểu tăng thêm 10% hội viên là doanh nghiệp TĐG và 10% hội viên là cá nhân. Nghiên cứu, hình thành câu lạc bộ các giám đốc TĐG hội viên tại 3 khu vực: Bắc – Trung – Nam.
Thực hiện kiện toàn công tác thi đua khen thưởng sau khi Đại hội đã bầu được BCH mới.
C. Biện pháp tổ chức thực hiện
1. Căn cứ phương hướng hoạt động của cả nhiệm kỳ được Đại hội III thông qua; Hàng năm, BCH Hội có trách nhiệm xây dựng, cụ thể hóa phương hướng hoạt động, tổ chức triển khai trong toàn Hội.
2. Tranh thủ sự lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời của Bộ Tài chính với trách nhiệm “Quản lý Nhà nước thực sự là bà đỡ có hiệu quả cho hoạt động của Hội” phối, kết hợp chặt chẽ với Cục Quản lý giá Bộ Tài chính để thực hiện có hiệu quả nhất các nhiệm vụ của hoạt động thẩm định giá.
3. Từng thành viên BCH căn cứ phương hướng hoạt động cả nhiệm kỳ và phương hướng hoạt động từng năm xây dựng kế hoạch, biện pháp thực hiện báo cáo Thường vụ Hội để điều phối chung.
4. Lãnh đạo các doanh nghiệp hội viên có trách nhiệm xây dựng kế hoạch tổ chức triển khai phương hướng hoạt động chung của Hội tại đơn vị mình.
5. Tăng cường công tác thanh, kiểm tra hoạt động của các doanh nghiệp hội viên để kịp thời chấn chỉnh những việc làm chưa đúng nhằm không ngừng nâng cao chất lượng hoạt động.
HỘI THẨM ĐỊNH GIÁ VIỆT NAM
(Văn Phòng Hội )